Thương nhĩ tử
Phân loại:
Thành phần khác
Mô tả:
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Thương nhĩ tử.
Tên khác: Ké đầu ngựa.
Tên khoa học: Xanthium strumarium L., Asteraceae (họ Cúc).
Đặc điểm tự nhiên
Thương nhĩ tử là loại cây thân thảo sống hàng năm, cao khoảng 20–90 cm, thân mọc thẳng, phân nhánh, thường có lốm đốm màu tím và có lông ngắn màu trắng rải rác trên bề mặt.
Lá màu xanh, hình bầu dục, chủ yếu mọc so le (từ 2–6 lá đôi khi mọc đối nhau), lá dài 5–20 cm và rộng 4–16 cm, hình dạng của các phiến lá là hình mũi mác, tuyến tính, hình trứng, hình tam giác hoặc hình bán cầu, và cả hai bề mặt đều có lông hoặc có sọc, thường có các đốm tuyến, mép nguyên hoặc có răng.
Cụm hoa gần như không cuống, mọc thành cụm, đơn tính. Hoa đực hình cầu, hoa cái hình trứng, đài hoa hình trụ, hoa hình ống, đỉnh 5 răng, nhị 5 răng. Bao phấn thuôn dài và thẳng.

Phân bố, thu hái, chế biến
Thương nhĩ tử được phân bố rộng rãi trên toàn thế giới, bao gồm Nga, Iran, Ấn Độ, Bắc Triều Tiên và Nhật Bản. Nó có nguồn gốc từ Trung Quốc và phân bố rộng rãi ở khu vực Đông Bắc Trung Quốc, Tây Nam Trung Quốc, Bắc Trung Quốc, Đông Trung Quốc và Nam Trung Quốc. Nó thường mọc ở vùng đồng bằng, đồi núi, ven đường hoang vu. Thời gian ra hoa từ tháng 7 đến tháng 8 và thời kỳ đậu quả kéo dài từ tháng 9 đến tháng 10 ở Trung Quốc.
Bộ phận sử dụng
Quả và phần cây trên mặt đất là bộ phận thường được sử dụng làm thuốc. Thu hái quả khi chín phơi khô. Cây có thể thu hái quanh năm.

Dược động học:
Dược lực học:
Xem thêm
Cinnamaldehyde là gì?
Cinnamaldehyde còn được gọi là Aldehyde cinnamic; 3-phenyl-2-propan; Anđehit cinnamyl; Phenylalacrolein; quế chi và trans-cinnamaldehyde. Đây là thành phần có trong vỏ của cây quế (Cinnamomum zeylanicum), xuất xứ từ Sri Lanka và Ấn Độ và được trồng ở Brazil, Jamaica và Mauritius. Cinnamaldehyde cũng được tìm thấy trong các thành viên khác của loài Cinnamomum bao gồm cả cây cassia và long não.
Có công thức hóa học là C6H5CH = CHCHO, Cinnamaldehyde là một hợp chất hữu cơ xuất hiện tự nhiên chủ yếu là đồng phân trans (E), mang lại hương vị và mùi cho quế.
Đây là một Phenylpropanoid được tổng hợp tự nhiên bằng con đường sinh tổng hợp Shikimat, tồn tại dưới dạng chất lỏng nhớt, màu vàng nhạt. Tinh dầu của vỏ quế chứa khoảng 90% là Cinnamaldehyde.
Công thức phân tử của Cinnamaldehyde được xác định vào năm 1834 bởi các nhà hóa học người Pháp Jean Baptiste André Dumas (1800–1884) và Eugène Melchior Péligot (1811–1890) và mặc dù công thức cấu trúc của nó chỉ được giải mã vào năm 1866 bởi nhà hóa học người Đức Emil Erlenmeyer (1825– Năm 1909).
Điều chế sản xuất
Có nhiều cách để điều chế Cinnamaldehyde. Thành phần này được điều chế thương mại bằng cách xử lý vỏ cây Cinnamomum zeylanicum với hơi nước. Anđehit hòa tan trong hơi nước, sau đó Cinnamaldehyde được chiết xuất khi hơi nước nguội đi và ngưng tụ lại để tạo thành nước lạnh, trong đó hợp chất ít hòa tan hơn nhiều.
Cinnamaldehyde cũng có thể được tổng hợp bằng cách cho phản ứng giữa Benzaldehyde (C6H5CHO) với Acetaldehyde (CH3CHO). Hai hợp chất ngưng tụ sau khi loại bỏ nước để tạo thành Cinnamaldhyde.
Năm 1834, Cinnamaldehyde được phân lập từ tinh dầu quế bởi Jean-Baptiste Dumas và Eugène-Melchior Péligot và được nhà hóa học người Ý Luigi Chiozza tổng hợp trong phòng thí nghiệm vào năm 1854.
Tinh dầu quế được chiết xuất từ vỏ cây quế với thành phần chính là Cinnamaldehyde. Có hai cách để chiết xuất được tinh dầu quế từ vỏ quế: Đó là công nghệ chưng cất hơi nước và chiết xuất qua dung môi. Nhưng để đạt thành phần Cinnamaldehyde lên đến 90% thì phải sử dụng công nghệ chưng cất hơi nước, còn với công nghệ chiết xuất qua dung môi chỉ đạt được 62 % đến 73 % tỉ lệ Cinnamaldehyde.
Cơ chế hoạt động
Nhiều dẫn xuất của Cinnamaldehyde có ích về mặt thương mại. Rượu Dihydrocinnamyl, xuất hiện tự nhiên nhưng được sản xuất bằng cách hydro hóa gấp đôi Cinnamaldehyd, được sử dụng để tạo ra mùi thơm của lục bình và hoa cà. Rượu Cinnamyl cũng tương tự và có mùi của hoa cà, có thể được sản xuất bắt đầu từ Cinnamaldehyd. Dihydrocinnamaldehyd được tạo ra bởi quá trình hydro hóa chọn lọc của tiểu đơn vị kiềm.
Adipic Acid là gì?
Adipic Acid (hay acid hexanedioic) là hợp chất hữu cơ, công thức hóa học là (CH2)4(COOH)2.
Trong công nghiệp, Adipic Acid là acid dicarboxylic quan trọng nhất. Adipic Acid tồn tại ở dạng bột tinh thể màu trắng, mỗi năm được sản xuất vào khoảng 2,5 tỷ kg.
Chủ yếu là tiền chất để sản xuất nylon, Adipic Acid hiếm khi xuất hiện trong tự nhiên. Trong đời sống, Adipic Acid là phụ gia thực phẩm được sản xuất với số E là E355.
Một số tên gọi khác của Adipic Acid là:
-
Axit Hexanedioic;
-
Axit adipic Axit;
-
Butan-1,4-dicarboxylic Axit;
-
Hexan-1,6-dioic axit;
-
1,4-butanedicarboxylic.
Adipic Acid có khả năng tham gia phản ứng trùng ngưng.
Điều chế sản xuất Adipic Acid
Quá trình hydrocarboxyl hóa tiến hành như sau:
CH 2 = CH − CH = CH 2 + 2 CO + 2 H 2 O → HO 2 C (CH 2 ) 4 CO 2 H
Một phương pháp khác là phân cắt oxy hóa cyclohexene bằng hydro peroxide, thải ra nước.
Trong lịch sử, Adipic Acid được điều chế bằng cách oxy hóa các chất béo khác nhau.
Axit stearic là gì?
Axit Stearic là acid béo bão hòa gồm một chuỗi 18 cacbon, có công thức hóa học CH3-(CH2)16-COOH và có tên IUPAC là acid octadecanoic.
Axit stearic là một axit béo no, chuỗi dài được tìm thấy trong các chất béo động vật và thực vật khác nhau. Về cơ bản, hoạt chất này như một chất béo dưỡng ẩm. Đây là một thành phần tự nhiên, cụ thể là bơ ca cao và bơ hạt mỡ có trong một số thành phần của kem dưỡng ẩm da.
Thành phần này được làm chất phụ gia để sản xuất rất nhiều sản phẩm chăm sóc tóc, da cũng như một số chất tẩy rửa gia dụng.
Axit Stearic có màu trắng tới hơi vàng ở thể rắn với 2 dạng đó là tinh thể và dạng bột. Hoạt chất này có khối lượng phân tử: 284,48 (g/mol), điểm tan chảy 69,4 độ C và điểm phân hủy là 350 độ C.
Điều chế sản xuất Axit stearic
Quá trình chưng cất các chất béo và các loại mỡ thực vật với nước ở áp suất cao và nhiệt độ trên 200 độ C dẫn đến quá trình thủy phân được tạo thành axit stearic. Thành phần axit stearic thường là hỗn hợp giữa panmitic và axit stearic. Axit stearic còn được sản xuất bằng phương pháp khác. Từ tinh bột thông qua hydro hóa các axit béo không no có ở dầu thực vật và tổng hợp thông qua acetyl-CoA để được axit stearic.
Cơ chế hoạt động của Axit stearic
Một số nghiên cứu đã xác định cơ chế axit stearic (18:0) ức chế chọn lọc các phản ứng miễn dịch phụ thuộc vào tế bào T trong ống nghiệm. Trong quá trình ủ các tế bào B và T được kích hoạt bằng mitogen với tỷ lệ 18: 0 dẫn đến các kiểu kết hợp axit béo bão hòa khác nhau vào màng của chúng. Các phân tích sắc ký lỏng hiệu suất cao (HPLC) của tế bào T cho thấy sự tích tụ của phosphatidylcholine (PC) có chứa phosphatidylcholine (PC) 18:0 không bão hòa đã thay thế PC tế bào bình thường.
Một số ít PC được tìm thấy tích tụ trong màng tế bào B làm tăng tỷ lệ PC chứa axit oleic (18:1). Các thành phần lipid khác nhau của màng tế bào lymphocyte sau khi tiếp xúc với tỷ lệ 18:0 có tương quan với điện thế màng sinh chất của chúng.
Trong các tế bào T, sự tích tụ không bão hòa, PC chứa 18:0 trùng hợp với sự phá vỡ nhanh chóng tính toàn vẹn của màng, được xác định bằng phương pháp đo tế bào dòng chảy. Sự phá vỡ tính toàn vẹn của màng được phát hiện phụ thuộc vào thời gian và liều lượng. Nghiên cứu không quan sát thấy có sự khử cực nào như vậy trong các tế bào B, nhờ khả năng khử bão hòa, có thể tránh kết hợp một lượng lớn các phospholipid có chứa 18:0 không bão hòa vào màng của chúng.
Người ta cho rằng sự thiếu hụt stearoyl-CoA desaturase trong tế bào T sẽ ngăn chúng khỏi quá trình khử bão hòa có nguồn gốc ngoại sinh 18:0, do đó dẫn đến tăng tỷ lệ PC không bão hòa có chứa 18: 0 trong màng tế bào của chúng. Sự phong phú của loài PC này có thể tăng cường độ cứng của màng sinh chất bị suy giảm đáng kể.
Epigallocatechin gallate là gì?
Epigallocatechin gallate (còn gọi EGCG), là một polyphenol tự nhiên được tìm thấy trong trà xanh, mang lại tác dụng chống oxy hóa tuyệt vời, giúp bảo vệ cơ thể khỏi các góc tự do gây hại.
Trong chiết xuất trà xanh có 4 nhóm polyphenolic catechin (GTP) chính, bao gồm epicatechin (EC), epigallocatechin (EGC), epigallocatechin-3-gallate (EGCG) và epicatechin-3-gallate (ECG). Trong 4 nhóm này, EGCG là hoạt chất chiếm đa số và có hoạt tính sinh học cao nhất, góp phần làm giảm tình trạng ung thư da do tia UV gây ra. Đó là lý do vì sao EGCG rất được chú trọng ứng dụng vào công thức mỹ phẩm dành cho da khô, da nhạy cảm – vốn là hai loại da dễ bị các dấu hiệu lão hóa sớm tấn công hơn các loại da khác.
Theo các nghiên cứu cho thấy, hợp chất EGCG là chất chống oxy hóa hữu hiệu nhất hiện nay: Cao gấp 100 lần so với vitamin C, gấp 25 lần so với vitamin E. Nhờ đó, epigallocatechin gallate có khả năng chống lại các gốc tự do, các phân tử không ổn định có thể phá hủy các tế bào khỏe mạnh và gây ung thư.
Chúng ta đều biết rằng, trong quá trình chuyển hóa của cơ thể hoặc dưới tác động của các yếu tố bên ngoài (ô nhiễm môi trường, stress, thói quen ăn uống không lành mạnh…), các gốc tự do được sản sinh, hủy hoại tế bào và mô, dẫn đến tình trạng cơ thể xuống cấp dần dần, da dễ bị nhăn nheo, suy giảm sức đề kháng, hệ miễn dịch dễ bị tổn thương và tiềm ẩn nhiều bệnh nguy hiểm, nhất là bệnh ung thư. Sử dụng EGCG trong trà xanh thường xuyên, đúng cách sẽ giúp làm giảm, loại trừ và trung hòa gốc tự do và những tổn thương mà gốc tự do gây ra.
Cơ chế hoạt động của Epigallocatechin gallate
Các nhà khoa học đã chứng mình epigallocatechin gallate mang lại khả năng ức chế men metalloproteinase và collagen liên kết chéo liên quan đến lão hóa. Chất chống oxy hóa trong epigallocatechin gallate sẽ liên kết với các gốc tự do, vô hiệu hóa chúng trước khi chúng có thể gây hại.
Nhờ đó, epigallocatechin gallate có tác dụng chống dấu hiệu lão hóa da, bảo vệ da khỏi các tổn thương do tia cực tím, bụi bẩn, ô nhiễm môi trường gây ra. Nó cũng có khả năng kháng viêm, giúp làm dịu da kích ứng một cách nhanh chóng.
Adenine là gì?
Adenine là một nucleobase (một dẫn xuất purine). Nó là một trong bốn nucleobase trong axit nucleic của DNA được biểu thị bằng các chữ cái G – C – A – T. Ba chất khác là guanine, cytosine và thymine. Các dẫn xuất của nó có nhiều vai trò khác nhau trong sinh hóa bao gồm hô hấp tế bào, ở dạng cả adenosine triphosphate (ATP) giàu năng lượng và các đồng yếu tố nicotinamide adenine dinucleotide (NAD), flavin adenine dinucleotide (FAD) và Coenzyme A.
Adenine có công thức hóa học là C5H5N5 và cấu trúc là một vòng cacbon-nitơ kép. Nó là một purine, vì vậy nó được tạo thành từ một vòng năm cạnh và một vòng sáu cạnh, mỗi vòng chứa nitơ, được hợp nhất với nhau. Phân tử adenin có thể được phân biệt với các nhân purin khác bằng nhóm amin gắn với cacbon của chúng ở vị trí 6. Ngoài ra còn có một nhóm hydro gắn với nitơ ở vị trí 9.

Adenine có công thức hóa học là C5H5N5
Nó cũng có có chức năng tổng hợp protein và là thành phần hóa học của DNA và RNA. Hình dạng của adenine bổ sung cho thymine trong DNA hoặc uracil trong RNA.
Điều chế sản xuất
Sự chuyển hóa purine liên quan đến sự hình thành của adenine và guanine. Cả adenine và guanine đều có nguồn gốc từ nucleotide inosine monophosphate (IMP), lần lượt được tổng hợp từ một ribose phosphate có sẵn từ trước thông qua một con đường phức tạp sử dụng các nguyên tử từ axit amin glycine, glutamine và axit aspartic, cũng như coenzyme tetrahydrofolat.
Phương pháp sản xuất adenine ở quy mô công nghiệp được công nhận hiện nay là một dạng sửa đổi của phương pháp formamide. Phương pháp này làm nóng formamide trong điều kiện 120 độ C trong bình kín trong 5 giờ để tạo thành adenin. Phản ứng được tăng lên nhiều về số lượng bằng cách sử dụng phốtpho oxyclorua (photphoryl clorua) hoặc photpho pentachlorua làm chất xúc tác axit và điều kiện ánh sáng mặt trời hoặc tia cực tím.
Sau khi 5 giờ trôi qua và dung dịch formamide-phospho oxychloride-adenine nguội bớt, nước được đưa vào bình có chứa formamide và bây giờ là adenine đã tạo thành.
Cơ chế hoạt động
Adenine tạo thành adenosine, một nucleoside, khi gắn vào ribose, và deoxyadenosine khi gắn vào deoxyribose, và nó tạo thành adenosine triphosphate (ATP), thúc đẩy nhiều quá trình trao đổi chất tế bào bằng cách truyền năng lượng hóa học giữa các phản ứng.
Chitosan là gì?
Chitosan là dẫn xuất N-deacetylated của Chitin – một Polysaccharid có nhiều trong nấm, nấm men, các động vật không xương sống ở biển và động vật chân đốt. Chất Chitin được dùng để sản xuất ra Chitosan.
Chitin là một Polysaccharide mạch thẳng, là một Polymer của nhiều đơn vị N-acetyl-glucosamine nối với nhau nhờ cầu β-1,4glucoside. Vì Chitin tự nhiên có trong vỏ tôm thường liên kết với Protein, Lipid, Canxi, sắc tố… nên thường phải làm sạch trước khi sử dụng để sản xuất Chitosan.
Hai bước chính để làm sạch Chitin gồm khử khoáng bằng Acid và khử Protein bằng kiềm hoặc một Enzyme protease. Chitosan liên quan chặt chẽ với Chitin, nung nóng Chitin trong dung dịch xút đậm đặc, các gốc Acetyl bị khử hết và Chitin chuyển thành Chitosan.
Trong thiên nhiên, Chitin còn hiện diện dưới nhiều hình thức: Khá tinh khiết (sâu bướm), trong các lớp rất mỏng (cánh bướm, với hiệu ứng màu tuyệt vời), cùng với các protein tạo thành sclerotin (chất chính trong bộ xương ngoài của côn trùng)…
Chitosan có khả năng tạo thành màng mỏng, kết hợp với nước, chất béo, ion kim loại, có tính kháng khuẩn…, vì vậy được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong dược phẩm, mỹ phẩm.
Điều chế sản xuất Chitosan
Chitin dễ dàng thu được từ vỏ cua, vỏ tôm và sợi nấm.
- Cách đầu tiên, sản xuất Chitin có liên quan đến các ngành công nghiệp thực phẩm, điển hình là ngành đóng hộp. Sản xuất Chitin và Chitosan phần lớn dựa vào vỏ tôm và vỏ cua được lấy về từ các nhà máy đóng hộp. Việc sản xuất Chitosan từ vỏ động vật giáp xác (được xem như dạng chất thải của ngành công nghiệp thực phẩm) mang tính khả thi rất cao về mặt kinh tế.
- Cách thứ hai, sản xuất phức hợp Chitosan-glucan đi liền với quá trình lên men, tương tự như việc sản xuất Axit citric từ nấm Aspergillus niger, Mucor rouxii và Streptomyces bằng cách xử lý kiềm và tạo ra phức hợp trên.
Chất kiềm loại bỏ protein và đồng thời có thể đẩy nhóm chức acetyl ra khỏi hợp chất Chitin. Tùy thuộc vào nồng độ kiềm, một số glycans hòa tan được loại bỏ. Việc sử dụng vỏ động vật giáp xác chủ yếu để loại bỏ protein và hòa tan một lượng lớn Calcium carbonate có trong vỏ cua. Hợp chất Chitin đã bị khử Acetyl sẽ được tạo ra trong dung môi 40% Sodium hydroxide ở nhiệt độ 1.200C liên tục 1 tới 3 giờ đồng hồ. Cách xử lý này tạo ra 70% Chitosan đã khử Acetyl.
Cơ chế hoạt động
Sự xuất hiện của các vi sinh vật kháng kháng sinh dẫn đến nhu cầu cấp thiết để phát triển các loại kháng sinh thay thế. Các vi hạt Chitosan (CM), có nguồn gốc từ Chitosan, đã được chứng minh là làm giảm sự phát tán của vi khuẩn E. coli O157: H7, cho thấy khả năng sử dụng CM như một chất kháng khuẩn thay thế. Tuy nhiên, cơ chế cơ bản của CM trong việc giảm sự phát triển của mầm bệnh này vẫn chưa rõ ràng.
Để hiểu phương thức hoạt động, cần nghiên cứu các cơ chế phân tử của hoạt động kháng khuẩn của CM bằng phương pháp in vitro và in vivo. CM là một chất diệt khuẩn hiệu quả với khả năng phá vỡ màng tế bào. Các thử nghiệm liên kết và nghiên cứu di truyền với một chủng đột biến ompA đã chứng minh rằng Protein màng ngoài OmpA của E. coli O157: H7 rất quan trọng đối với liên kết CM. Hoạt động liên kết này được kết hợp với tác dụng diệt khuẩn của CM.
Điều trị CM có hiệu quả làm giảm sự phát tán của E. coli gây bệnh trong tử cung so với điều trị kháng sinh. Vì độc tố Shiga được mã hóa trong bộ gen của xạ khuẩn thường biểu hiện quá mức trong quá trình điều trị bằng kháng sinh, nên thường không khuyến cáo điều trị bằng kháng sinh vì nguy cơ cao mắc hội chứng urê huyết tán huyết.
Tuy nhiên, xử lý CM không tạo ra vi khuẩn hoặc độc tố Shiga ở E. coli O157: H7, cho thấy CM có thể là một ứng cử viên tiềm năng để điều trị các bệnh nhiễm trùng do mầm bệnh này gây ra. Công việc này thiết lập một cơ chế cơ bản, nhờ đó CM phát huy hoạt tính kháng khuẩn, cung cấp cái nhìn sâu sắc về việc điều trị các bệnh do nhiều mầm bệnh gây ra, bao gồm cả vi sinh vật kháng kháng sinh.
Nylon-12 có công thức hóa học [(CH₂) CNH], được tạo ra từ các Monome-Aminolauric hoặc Laurolactam mà mỗi loại có 12 carbons nên có tên là “Nylon-12”.
Nylon-12 là một trong một số polime nylon có mặt phổ biến trong các công thức của kem dưỡng da tay, mỹ phẩm trang điểm, mascara, sơn móng tay… với công dụng chính là giúp tạo bọt, làm trắng cũng như kiểm soát độ nhớt cho sản phẩm.
Nylon-12 có dạng bột, đặc tính không mùi, màu trắng hơi vàng nhẹ, được sử dụng như một vi cầu polime (một dạng cầu nhỏ từ các tiểu đơn vị lặp lại). Nylon-12 có thể dùng thay thế cho chất Talc, mica trong sản phẩm, giúp mang lại cảm giác mềm mại tương tự nhưng không làm bít tắc lỗ chân lông của da.
Nylon-12 có tính trượt lớn, hấp thụ dầu vừa phải, rất ít khả năng gây dị ứng. Kích thước micron của Nylon-12 trung bình 6-9 micron.
Fish collagen là gì?
Xét về nguồn gốc, hiện nay trên thị trường đang bày bán hai loại collagen: Collagen có nguồn gốc từ động vật trên cạn và một loại khác là collagen có nguồn gốc từ cá (fish collagen).
Fish collagen thuộc dạng collagen loại 1, là loại collagen quan trọng cho làn da đẹp và xương chắc khỏe. Đây là một loại protein được thủy phân từ da cá bằng enzyme đặc hiệu, có kích thước phân tử nhỏ hơn các loại collagen khác giúp cơ thể hấp thu dễ dàng hơn.
Fish collagen có kích thước phân tử chỉ bằng 1/60 so với collagen thông thường. Chính vì kích thước nhỏ như vậy nên khi vào đến dạ dày, fish collagen không cần nhiều thời gian để thủy phân hơn so với collagen thông thường. Từ đó nó cũng mang lại hiệu quả vượt trội hơn, khả năng hấp thu nhanh hơn gấp 5-7 lần so với collagen thông thường.
Ngoài ra, fish collagen hầu như không chứa hoặc chứa rất ít chất béo, thích hợp với tất cả mọi người kể cả người ăn kiêng.
Bên cạnh đó, do đặc tính phải chịu áp lực của dòng nước nên so với động vật trên cạn, da cá sẽ có độ đàn hồi chắc hơn nhiều. Vì thế, collagen được chiết xuất từ cá biển sâu có độ đàn hồi và độ dẻo dai rất cao.
Trong 10 gram fish collagen có chứa 45 calo, 9,4gram protein, 10 miligam natri, 0,07 miligam kali, 0,05 miligam canxi, 0,04 miligam sắt.
Điều chế sản xuất fish collagen
Fish collagen được chiết xuất thông qua một quá trình thủy phân phức tạp từ da và vảy cá, chúng hầu như không gặp phải các vấn đề về vệ sinh, không mang các vi khuẩn, virus truyền nhiễm từ động vật.
Cơ chế hoạt động của fish collagen
Chức năng chính của fish collagen là kết nối các mô trong cơ thể lại với nhau. Fish collagen là yếu tố cần thiết trong quá trình tạo ra các axit amin cần thiết cho sức khỏe của làn da, mái tóc, móng tay, khớp xương và các mô khác trên cơ thể người.
Fish collagen mang lại hiệu quả cao đối với làn da con người bởi khả năng hồi phục và tái tạo da, duy trì sự đàn hồi cho da, chống lão hóa.
Butyl Acetate là gì?
Butyl Acetate có tên gọi dân gian là dầu chuối, hay xăng thơm. Đây là một hợp chất hữu cơ có công thức hóa học CH3COOCH2CH2CH2CH3.
Butyl acetate được dùng làm dung môi cho ngành sản xuất sơn, mực in, cao su, chất kết dính, cũng như được sử dụng làm mùi trái cây tổng hợp trong thực phẩm như kẹo, kem, pho mát, thực phẩm đóng gói. Người ta có thể tìm thấy Butyl Acetate trong nhiều loại trái cây.
Butyl Acetate tan ít trong nước nhưng hòa tan được dung môi hữu cơ như alcohol, aldehyde, ether, glycol ether, ketone, hydrocacbon mạch thẳng.
Về tính chất, Butyl Acetate có những đặc trưng riêng như sau:
-
Là chất lỏng không màu;
-
Tan trong nước;
-
Khối lượng phân tử:116.16 g/mol;
-
Tỷ trọng: 0.87 g/cm3;
-
Nhiệt độ đông đặc: -99oC;
-
Nhiệt độ sôi: 112oC;
-
Áp suất hơi: 1.33;
-
Độ nhớt: 0.6 cP (25oC);
-
Mùi thơm như mùi chuối chín.
Điều chế sản xuất Butyl Acetate
Để sản xuất dung môi Butyl Acetate, người ta tiến hành thủy phân Butanol và Axit Axetic (có Axit Sunfuric làm xúc tác) theo quy trình sau:
-
Chuẩn bị Butanol, Axit Axetic và Axit Sunfuric theo tỷ lệ phù hợp rồi cho vào lò phản ứng este hóa trong nhiệt độ 120oC để cân bằng axit dưới 0.5. Chúng ta sẽ thu được este thô trung hòa.
-
Sau khi thu được este thô trung hòa, người ta chuyển qua nồi chưng cất ở nhiệt độ 126oC (nhiệt độ có thể thay đổi tùy trường hợp).
Hydrolyzed Collagen là gì?
Hydrolyzed collagen, hay còn gọi là collagen thủy phân, đây là hỗn hợp các polypeptide được thu lại từ quá trình thủy phân enzyme. Trong xương, da và các mô liên kết của động vật đều có collagen thủy phân.
Trong cơ thể con người và động vật, collagen thủy phân là một loại collagen protein khá dồi dào. Thịt nội tạng, các món ăn hầm với xương chứa một lượng collagen thủy phân tự nhiên mà bạn có thể bổ sung vào trong cơ thể một cách dễ dàng.
Collagen thủy phân có dạng bột màu trắng nhạt, tan được trong nước và có mùi nhẹ. Hydrolyzed collagen chứa đến 20 loại amino acids và các vitamin vô cùng quan trọng; trong đó phải kể đến Glycine, Proline và Hydroxyproline là 3 amino acids chiếm đến 50% tổng lượng amino acids. Chính nhờ tổ hợp độc đáo này mà Hydrolyzed Collagen trở thành nguồn “dinh dưỡng” vô cùng giá trị.
Do vậy, chúng ta cũng không có gì ngạc nhiên khi trong mỹ phẩm, Hydrolyzed Collagen được sử dụng chủ yếu trong các sản phẩm chăm sóc tóc và các dòng vệ sinh cá nhân tắm rửa.
Điều chế sản xuất Hydrolyzed Collagen
Theo các chuyên gia, trong thực phẩm hàng ngày chứa hàm lượng collagen không cao. Collagen thường vốn có kích thước phân tử lớn hơn kích thước của collagen tự nhiên trong cơ thể, vì vậy khi ta sử dụng một lượng lớn collagen, khả năng đào thải sẽ rất cao, càng làm giảm hiệu quả của việc bổ sung collagen.
Do đó, công nghệ collagen thủy phân (Hydrolyzed Collagen) ra đời sẽ giúp chiết tách collagen từ da các động vật, đặc biệt từ da cá biển sâu như cá tuyết, cá hồi... thành collagen peptit mang lại hiệu quả nhanh chóng.
Bởi loại collagen này có lượng dưỡng chất tập trung cao, rất tinh khiết với phân tử nhỏ bằng 1/60 collagen thông thường nhưng lại có cấu trúc tương đồng với da người nhất, tăng khả năng hấp thu lên gấp 7 lần.
Cơ chế hoạt động của Hydrolyzed Collagen
Collagen được thủy phân hoàn toàn sẽ dễ dàng sử dụng hơn. Do có đặc tính hòa tan dễ dàng vào trong chất lỏng, collagen thủy phân khi đưa vào cơ thể cũng dễ dàng hấp thụ hơn.
Collagen thủy phân là một loại protein không mùi, không vị nên bổ sung vào các thực đơn bổ dưỡng cho cơ thể con người cũng rất tiện lợi. Bên cạnh đó, nó cũng dễ dàng khi thêm vào các công thức chế tạo sản phẩm hỗ trợ khác dành cho cơ thể người.
Geraniol được biết đến là loại rượu terpene có nguồn gốc tự nhiên. Terpene là nhóm các loại hợp chất hữu cơ từ thực vật, thường có mặt trong các loại tinh dầu của một số loại cây có hương thơm.
Geraniol có mùi thơm rất mạnh, trong tự nhiên mùi này được tỏa ra mục đích bảo vệ thực vật khỏi những động vật ăn cỏ và thu hút lại các động vật ăn thịt cùng với ký sinh trùng từ động vật ăn cỏ.
Trong ngành mỹ phẩm và các sản phẩm chăm sóc da, các nhà sản xuất thường bổ sung thành phần geraniol vào công thức sản phẩm để tạo mùi thơm. Trong các loại tinh dầu hoa hồng, dầu sả hoa hồng palmarosa, dầu sả java, chúng ta có thể tìm thấy geraniol là thành phần chính, chiếm tỷ lệ chủ yếu.
Ngoài ra, geraniol trong tinh dầu của cây phong lữ, chanh và các tinh dầu thực vật khác cũng góp một lượng nhỏ. Chưa kể, các tuyến hương bên trong mật ong cũng tạo ra để làm dấu cho các hoa mang mật hoa.
Được sản xuất chủ yếu ở dạng dầu không màu và vàng nhạt, geraniol không hòa tan trong nước tuy nhiên thành phần này lại hòa tan trong các dung môi hữu cơ.
Chrysanthemum Indicum Flower Extract là gì?
Chrysanthemum Indicum Flower Extract là chiết xuất từ cây cúc tần, cây cúc tần phát triển lên đến 0,6 m (24 in) x 0,6 m (24 in) thường nở hoa từ tháng 8 đến tháng 10. Cây phải được trồng bên ngoài dưới ánh sáng mặt trời với đất ẩm. Chúng thường có hoa màu vàng hoặc trắng với phấn màu vàng, thích hợp với đất nhẹ (cát), trung bình (mùn) và nặng (đất sét). Độ pH thích hợp: Đất chua, trung tính và bazơ (kiềm).

Chrysanthemum Indicum Flower Extract là chiết xuất từ cây cúc tần
Canh tác
Hoa cúc chỉ là một loại cây của vùng ôn đới nhưng nó có thể được trồng thành công bên ngoài khu vực như ở các khu vực nhiệt đới vì nó thường được trồng ở Đông Nam Á với đất ẩm (pH khoảng 6,5) trong thời tiết nắng. Nó có thể xử lý nhiệt độ xuống tới -10 ° C (14 ° F).
Lan truyền
Có thể gieo hạt trong khoảng từ tháng 8 đến tháng 10 và thường bắt đầu phát triển sau 10 đến 18 ngày ở 15 ° C (59 ° F).
Cây được thu hái từ tự nhiên để sử dụng tại địa phương như một loại thực phẩm và thuốc chữa bệnh, đôi khi nó được trồng để sử dụng làm thuốc.
Điều chế sản xuất Chrysanthemum Indicum Flower Extract
Điều chế chiết xuất từ hoa cúc Hoa cúc hoa cúc được mua từ chợ thảo mộc phương đông (Seoul, Hàn Quốc). Hoa khô (100 g) được chiết bằng 10l metanol (72 giờ) hoặc nước cất (2 giờ), và các chất chiết xuất được cô đặc dưới áp suất giảm. Nước sắc đã được lọc, đông khô và bảo quản ở 4°C cho đến khi sử dụng.
Cơ chế hoạt động
Chrysanthemum Indicum Flower Extract có thể làm tăng lưu lượng máu đến tim, nó cũng có thể làm tăng độ nhạy cảm với insulin.
Sản phẩm liên quan